Wednesday, September 19, 2012

Phụ nữ còn thụ động khi thực hiện quyền đứng tên giấy tờ nhà đất


19,7% Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do vợ đứng tên

Mới đây, một nghiên cứu về vấn đề trên do Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tài trợ đã được công bố nhằm lấy ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Nghiên cứu được tiến hành tại 10 tỉnh đại diện cho sự đa dạng của các vùng kinh tế và tộc người để khảo sát.

Chia sẻ kết quả nghiên cứu, bà Nguyễn Thị Phương Châm, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, hiện nay tỷ lệ phụ nữ đứng tên chủ quyền đất ở và các loại đất khác thấp hơn so với nam giới, ở nông thôn thấp hơn ở đô thị. Tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đứng tên cùng chồng có xu hướng cao hơn khi đó là đất do cha mẹ đẻ để lại, đất được cấp cho vợ hoặc chồng hoặc đất họ cùng mua sau khi kết hôn.

Sở hữu bình đẳng (hai vợ chồng cùng đứng tên) có xu hướng phổ biến hơn trong nhóm di dân, có học vấn cao hơn, có thu nhập cao hơn, có sự tham gia của phụ nữ trong các buổi họp tuyên truyền về pháp luật. Tỷ lệ hộ gia đình ở đô thị thực hiện việc đưa tên cả hai vợ chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cao hơn hẳn các địa bàn nông thôn.

Thực tế quan niệm con trai thường được thừa kế đất hương hỏa của tổ tiên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền sở hữu đất đai của người phụ nữ. Một phụ nữ 36 tuổi tại Long An tham gia khảo sát cho hay, "Luật người ta đã có rồi nhưng thực tế người ta chia không đồng đều ở chỗ con gái cưới chồng ra riêng, con trai ở chung với cha mẹ, phải nuôi cha mẹ. Truyền thống con trai phải cúng giỗ ông bà, do đó con trai được thừa hưởng nhiều hơn con gái".

Rõ ràng, đất hương hỏa không đơn thuần mang giá trị cư trú, giá trị kinh tế nữa mà còn mang giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng đậm nét và giá trị ấy đã hạn chế quyền tiếp cận đất đai của người phụ nữ.

Và dù nguồn gốc tài sản thường là bên vợ hay bên chồng thì người đứng tên trên giấy tờ thường là người chồng. Đối với những phụ nữ làm ruộng là chính, họ ít quan tâm hiểu về thủ tục đất đai, giấy tờ nên thường "để đàn ông đi" hoặc người chồng "đứng tên vì vợ không biết".

Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, tỷ lệ người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 44% là chồng, 22% là hai vợ chồng, 19,7% là vợ, 7,4% là người khác và 6,9% là bố mẹ.

Riêng đối với những người phụ nữ Khmer, họ nhận thức rất rõ về quyền bình đẳng tài sản, đó là "chồng chủ hộ, vợ thừa kế, mình không ký cũng không làm gì được giấy đó đâu." Khi li hôn việc phân chia tài sản theo nguyên tắc "tài sản của ai thì người đó sở hữu, còn tài sản chung thì "nếu mà vợ chồng mà không có hạnh phúc thì cũng cứ chia đều vậy đó" hay "li hôn thì tài sản chia đôi."

Phụ nữ thực hiện quyền tiếp cận đất đai là tự bảo vệ mình

Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất chung ngoài mục đích giảm thiểu sự bất bình đẳng giới về các vấn đề pháp lý liên quan đến đất đai còn bảo vệ gia đình khỏi những hành động đơn phương của chồng và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong trường hợp ly hôn hoặc trong các tranh chấp về đất đai.

Một số chuyên gia cho rằng, luật đã quy định hai vợ chồng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay nhà và nếu chỉ có một người đứng tên thì các giao dịch trên thực tế đều có chữ ký của người còn lại. Tuy nhiên tình trạng đứng tên một bên trên giấy tờ cũng như giao dịch về đất, nhà vẫn phổ biến, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã dẫn đến sự bất bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ so với nam giới.

Hệ quả là người phụ nữ dễ mất quyền với đất đai trong mọi trường hợp, nhất là khi vợ chồng ly hôn hoặc góa bụa. Đấy là chưa kể đến khó khăn của phụ nữ trong trường hợp cần vay vốn tín dụng của Nhà nước khi chồng ốm đau hay được quyền chủ động trồng cây gì, gieo hạt gì đạt năng suất cao…

Theo ông Nguyễn Thế Dũng – Ngân hàng Thế giới (WB), nghiên cứu này mới chỉ đưa ra những đánh giá chung chung và còn thiếu những thông tin cụ thể, những con số "biết nói" về thực trạng tiếp cận đất đai của phụ nữ. Những số liệu cụ thể cùng các kiến giải hợp lý sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, làm luật có căn cứ xem xét, điều chỉnh hợp lý hơn.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, để bảo đảm hơn nữa quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ, công tác truyền thông phải được tăng cường một cách hiệu quả thông qua việc đổi mới cách thức và nội dung tuyên truyền; khuyến khích và trợ giúp người dân làm giấy tờ nhà, đất theo quy định mới. Trong quá trình xây dựng và hướng dẫn thực thi các văn bản pháp luật đất đai phải cân nhắc những khác biệt về phong tục, giới, quan hệ xã hội, đặc tính vùng… để việc áp dụng luật thành hệ thống cho tất cả.

H.N



No comments:

Post a Comment